Xạ phẫu là gì? Các công bố khoa học về Xạ phẫu

Xạ phẫu là thuật phẫu thuật sử dụng tia X hoặc tia gamma để điều trị các bệnh ung thư hoặc các bệnh định tính khác. Kỹ thuật này sử dụng tia X hoặc tia gamma để...

Xạ phẫu là thuật phẫu thuật sử dụng tia X hoặc tia gamma để điều trị các bệnh ung thư hoặc các bệnh định tính khác. Kỹ thuật này sử dụng tia X hoặc tia gamma để tiêu diệt các tế bào bệnh của cơ thể, giúp làm giảm hoặc tiêu diệt khối u. Xạ phẫu thường được sử dụng khi phẫu thuật không phù hợp hoặc không có thể thực hiện.
Xạ phẫu là quá trình sử dụng tia X hoặc tia gamma để điều trị các bệnh ung thư hoặc các bệnh định tính khác. Quá trình này thường được tiến hành bởi các chuyên gia về xạ trị, được gọi là bác sĩ xạ trị (radiation oncologists) và kỹ thuật viên xạ trị (radiation therapists).

Các công đoạn chính trong quá trình xạ phẫu gồm:

1. Lập kế hoạch: Trước quá trình xạ phẫu, bác sĩ sẽ thực hiện các bước lập kế hoạch chi tiết. Điều này bao gồm khám bệnh, chụp CT hay PET/CT scan để xác định vị trí và kích thước của khối u. Sau đó, kỹ thuật viên sẽ tiến hành lập kế hoạch về liệu pháp xạ trị, xác định liều lượng và khu vực nhận xạ phẫu.

2. Chuẩn bị bệnh nhân: Trước khi xạ phẫu, bệnh nhân cần định vị vị trí chính xác. Điều này có thể được thực hiện bằng cách đặt hình chì hay nón định vị trên cơ thể của bệnh nhân và sử dụng thiết bị hỗ trợ để giữ vị trí ổn định suốt quá trình xạ phẫu.

3. Tiếp xúc với tia X hoặc tia gamma: Khi bệnh nhân đã được chuẩn bị, quá trình xạ phẫu tiến hành bằng cách sử dụng máy phát tia X hoặc tia gamma. Các tia này được chính xác hướng vào vị trí của khối u hoặc khu vực cần điều trị. Thời gian tiếp xúc với tia X hoặc tia gamma chỉ kéo dài trong vài phút. Quá trình này thường không gây đau hay khó chịu cho bệnh nhân.

4. Quá trình xạ phẫu: Khi tia X hoặc tia gamma được xạ trị, chúng sẽ tiếp xúc với tế bào bệnh và gây tổn thương và tiêu diệt chúng. Mục tiêu là làm giảm hoặc loại bỏ toàn bộ hoặc một phần khối u. Quá trình xạ phẫu thường xuyên được lặp lại trong một khoảng thời gian nhất định, có thể là hàng tuần trong vài tuần hoặc theo lịch trình được chỉ định bởi bác sĩ xạ trị.

5. Theo dõi và đánh giá: Sau khi hoàn thành quá trình xạ phẫu, bác sĩ sẽ tiến hành các cuộc kiểm tra và theo dõi sức khỏe của bệnh nhân. Các xét nghiệm và chụp hình có thể được thực hiện để xác định hiệu quả của xạ phẫu và đánh giá liệu liệu trị liệu cần bổ sung nào.

Tùy thuộc vào loại và giai đoạn của bệnh, các phương pháp xạ phẫu có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với các phương pháp điều trị khác như phẫu thuật, hóa trị và nguồn xạ nội vi. Quá trình xạ phẫu có thể mang lại lợi ích điều trị cho bệnh nhân bằng cách giảm tổn thương cho mô xung quanh và giảm tác động tiêu cực của điều trị truyền thống.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "xạ phẫu":

Hóa trị đồng thời với cisplatin/etoposide và xạ trị ngực sau đó phẫu thuật điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIA (N2) và IIIB: kết quả trưởng thành của nghiên cứu pha II của Southwest Oncology Group 8805. Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 13 Số 8 - Trang 1880-1892 - 1995
MỤC ĐÍCH

Đánh giá tính khả thi của việc hóa trị và chiếu xạ đồng thời (chemoRT) tiếp theo là phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển tại chỗ trong một môi trường hợp tác nhóm, và ước lượng tỷ lệ đáp ứng, tỷ lệ cắt bỏ, các mẫu tái phát và tỷ lệ sống sót cho các nhóm giai đoạn IIIA(N2) so với IIIB.

BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP

Yêu cầu cần có bằng chứng sinh thiết của hạch N2 dương tính (IIIAN2) hoặc hạch N3 hoặc tổn thương chính T4 (IIIB). Tiến hành hai chu kỳ hóa trị với cisplatin và etoposide cùng với xạ trị ngực đồng thời đến 45 Gy. Việc cắt bỏ được tiến hành nếu có phản ứng hoặc bệnh ổn định xảy ra. Đưa ra thêm một liều hóa trị xạ trị nếu phát hiện bệnh không thể cắt bỏ hoặc có các bờ hoặc hạch dương tính.

KẾT QUẢ

Thời gian theo dõi trung bình cho 126 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn [75 giai đoạn IIIA(N2) và 51 IIIB] là 2.4 năm. Tỷ lệ đáp ứng đối với điều trị kiềm chế là 59%, và 29% ổn định. Khả năng cắt bỏ là 85% cho nhóm IIIA(N2) đủ điều kiện phẫu thuật và 80% cho nhóm IIIB. Độc tính cấp độ 4 có thể hồi phục đã xảy ra ở 13% số bệnh nhân. Có 13 ca tử vong liên quan đến điều trị (10%) và 19 trường hợp khác (15%) tử vong không liên quan đến độc tính hoặc khối u. Trong số 65 ca tái phát, 11% chỉ là tại chỗ khu vực và 61% chỉ là di căn xa. Có 26 trường hợp tái phát não, trong đó 19 trường hợp là nơi hoặc nguyên nhân duy nhất gây tử vong. Không có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót (P = .81) giữa giai đoạn IIIA(N2) và giai đoạn IIIB (thời gian sống trung bình, 13 và 17 tháng; tỷ lệ sống sau 2 năm, 37% và 39%; tỷ lệ sống sau 3 năm, 27% và 24%). Dự đoán mạnh nhất về tỷ lệ sống lâu dài sau phẫu thuật ngực là không có khối u ở các hạch trung thất trong quá trình phẫu thuật (thời gian sống trung bình, 30 so với 10 tháng; tỷ lệ sống sau 3 năm, 44% so với 18%; P = .0005).

KẾT LUẬN

Phương pháp ba phương thức này khả thi trong nghiên cứu của Southwest Oncology Group (SWOG), với tỷ lệ sống sót 3 năm đầy khích lệ là 26%. Hiện nay đang được tiến hành một nghiên cứu liên nhóm để xác định liệu phẫu thuật có thêm vào nguy cơ hay lợi ích của hóa trị xạ trị.

#ung thư phổi #hóa trị #xạ trị #phẫu thuật #NSCLC #IIIA(N2) #IIIB #SWOG #cisplatin #etoposide #nghiên cứu pha II
Vai trò của đau đớn và chức năng trong việc xác định sự hài lòng của bệnh nhân sau phẫu thuật thay khớp gối toàn phần Dịch bởi AI
British Editorial Society of Bone & Joint Surgery - Tập 89-B Số 7 - Trang 893-900 - 2007

Một bảng câu hỏi qua bưu điện đã được gửi đến 10.000 bệnh nhân hơn một năm sau khi họ phẫu thuật thay khớp gối toàn phần (TKR). Bệnh nhân được đánh giá bằng thang điểm Oxford về khớp gối và được hỏi liệu họ có hài lòng, không chắc chắn hay không hài lòng với phẫu thuật TKR của mình. Tỷ lệ phản hồi đạt 87,4% (8231 trong tổng số 9417 bảng câu hỏi đủ điều kiện) và tổng cộng có 81,8% (6625 trong số 8095) bệnh nhân cảm thấy hài lòng. Mô hình hồi quy đa biến cho thấy rằng những bệnh nhân có điểm số cao hơn liên quan đến các yếu tố đau đớn và chức năng trong thang điểm Oxford về khớp gối có mức độ hài lòng thấp hơn (p < 0.001), và rằng cơn đau kéo dài là yếu tố dự đoán mạnh mẽ hơn về điều này. Giới tính nữ và chẩn đoán nguyên nhân chính là viêm khớp thoái hóa được phát hiện là những yếu tố dự đoán mức độ hài lòng của bệnh nhân thấp. Những khác biệt về tỷ lệ hài lòng cũng được quan sát liên quan đến độ tuổi, cấp độ của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ và loại prosthesis.

Nghiên cứu này đã cung cấp dữ liệu về thang điểm Oxford về khớp gối và mức độ hài lòng dự kiến một năm sau TKR. Các kết quả nên được coi là một tiêu chuẩn thực hành tại Vương quốc Anh và cung cấp một cơ sở để so sánh giữa các tổ chức.

Thử nghiệm giai đoạn III so sánh capecitabine cộng với cisplatin với capecitabine cộng với cisplatin kết hợp với Xạ trị Capecitabine đồng thời trong ung thư dạ dày đã được phẫu thuật hoàn toàn với nạo hạch D2: Thử nghiệm ARTIST Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 30 Số 3 - Trang 268-273 - 2012
Mục đích

Nghiên cứu ARTIST (Điều trị hóa xạ trị bổ trợ trong ung thư dạ dày) là nghiên cứu đầu tiên mà theo chúng tôi biết đến để điều tra vai trò của hóa xạ trị bổ trợ hậu phẫu ở bệnh nhân mắc ung thư dạ dày đã được cắt bỏ hoàn toàn với nạo hạch D2. Nghiên cứu này được thiết kế để so sánh điều trị hậu phẫu bằng capecitabine cộng với cisplatin (XP) với XP cộng với Xạ trị capecitabine (XP/XRT/XP).

Bệnh nhân và phương pháp

Nhánh XP nhận sáu chu kỳ XP (capecitabine 2,000 mg/m2 mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 14 và cisplatin 60 mg/m2 vào ngày đầu tiên, lặp lại mỗi 3 tuần) hóa trị. Nhánh XP/XRT/XP nhận hai chu kỳ XP sau đó là XRT 45-Gy (capecitabine 1,650 mg/m2 mỗi ngày trong 5 tuần) và hai chu kỳ XP.

Kết quả

Trong số 458 bệnh nhân, 228 được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP và 230 vào nhánh XP/XRT/XP. Điều trị được hoàn thành như kế hoạch đối với 75,4% bệnh nhân (172 trong số 228) trong nhánh XP và 81,7% (188 trong số 230) trong nhánh XP/XRT/XP. Tổng thể, việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm kéo dài thời gian sống không bệnh (DFS; P = .0862). Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân có di căn hạch bạch huyết tại thời điểm phẫu thuật (n = 396), bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP/XRT/XP có thời gian sống không bệnh vượt trội so với những người chỉ nhận XP (P = .0365), và ý nghĩa thống kê vẫn được giữ trong phân tích đa biến (ước tính tỷ lệ nguy cơ, 0.6865; 95% CI, 0.4735 đến 0.9952; P = .0471).

Kết luận

Việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật triệt căn và nạo hạch D2 trong ung thư dạ dày. Một thử nghiệm tiếp theo (ARTIST-II) trên bệnh nhân ung thư dạ dày dương tính với hạch bạch huyết đang được lên kế hoạch.

#Hóa xạ trị bổ trợ #ung thư dạ dày #cắt bỏ D2 #capecitabine #cisplatin #ARTIST #thử nghiệm lâm sàng
Tiêm trong khớp axit tranexamic giảm không chỉ mất máu mà còn sưng khớp gối sau phẫu thuật thay khớp gối toàn phần Dịch bởi AI
International Orthopaedics - Tập 35 - Trang 1639-1645 - 2011
Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nhằm khảo sát liệu việc tiêm axit tranexamic (TXA) vào khớp có làm giảm mất máu cũng như giảm sưng chân sau phẫu thuật thay khớp gối toàn phần (TKA) hay không. Chúng tôi đã thực hiện 100 trường hợp TKA ở bệnh nhân bị thoái hóa khớp. Tại thời điểm khâu lại, tổng cộng 2.000 mg/20 ml TXA đã được tiêm vào khớp gối thông qua một ống dẫn hút kín (nhóm TXA). Đối với nhóm đối chứng, cùng một thể tích dung dịch sinh lý đã được tiêm. Tình trạng trước phẫu thuật của bệnh nhân, mức hemoglobin (Hb) sau phẫu thuật, thể tích dịch thoát ra từ ống dẫn, D-dimer và nhu cầu truyền máu đã được so sánh giữa hai nhóm này. Hơn nữa, đường kính chân (đùi, vùng trên xương bánh chè và chu vi bắp chân) đã được đo trước và sau phẫu thuật để điều tra xem TXA có ảnh hưởng đến sự sưng chân sau phẫu thuật hay không. Kết quả cho thấy mức giảm Hb sau phẫu thuật đáng kể giảm ở nhóm TXA. Thêm vào đó, sự sưng khớp gối sau phẫu thuật đã được ức chế đáng kể ở nhóm TXA so với nhóm đối chứng. Kết quả tiết lộ rằng việc sử dụng TXA trong khớp không chỉ làm giảm mất máu mà còn làm giảm sưng khớp gối sau TKA.
#Axit tranexamic #phẫu thuật thay khớp gối #sưng khớp #mất máu
DLR MiroSurge: một hệ thống đa năng cho nghiên cứu trong phẫu thuật nội soi từ xa Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 5 - Trang 183-193 - 2009
Nghiên cứu về robot phẫu thuật yêu cầu các hệ thống để đánh giá các phương pháp khoa học. Các hệ thống này có thể được chia thành các hệ thống chuyên dụng và đa năng. Các hệ thống chuyên dụng được thiết kế cho một nhiệm vụ hoặc kỹ thuật phẫu thuật duy nhất, trong khi các hệ thống đa năng được thiết kế để mở rộng và hữu ích trong nhiều ứng dụng phẫu thuật khác nhau. Tuy nhiên, các hệ thống đa năng thường dựa trên robot công nghiệp và do đó, khó có thể phù hợp với việc tiếp xúc gần gũi với con người. Để đạt được một mức độ đa năng cao, nền tảng phẫu thuật robot Miro (MRSP) bao gồm các thành phần đa năng, các giao diện chuyên dụng cho phẫu thuật và có thể cấu hình cho bác sĩ phẫu thuật. Bài báo này trình bày MiroSurge, một cấu hình của MRSP cho phép thực hiện phẫu thuật nội soi từ xa bằng hai tay với phản hồi lực. Mặc dù các thành phần của hệ thống MiroSurge được chứng minh là đáp ứng các yêu cầu thiết kế nghiêm ngặt cho phẫu thuật từ xa bằng robot với phản hồi lực, hệ thống vẫn giữ được tính linh hoạt, điều này được cho là một vấn đề quan trọng trong việc phát triển và tối ưu hóa trong tương lai.
#robot phẫu thuật #phẫu thuật nội soi từ xa #phản hồi lực #hệ thống đa năng #nghiên cứu khoa học
Thói quen ăn uống, Tăng trưởng, Hô hấp và Sử dụng Carbon của một Loài Giáp xác Euphausiid Dịch bởi AI
Canadian Science Publishing - Tập 23 Số 9 - Trang 1291-1317 - 1966

Trong loài tôm euphausiid Euphausia pacifica, một thành viên của sinh vật phù du đại dương, tốc độ tăng trưởng lên tới 0.048 mm/ngày ở giai đoạn ấu trùng trong phòng thí nghiệm, nhanh gấp hơn hai lần so với mức độ quan sát được ở các quần thể sống ngoài biển (0.02 mm/ngày) do các nhà nghiên cứu khác ghi nhận. Thời gian giữa hai lần lột xác, diễn ra trong suốt vòng đời, dao động giữa 3 và 8 ngày tùy thuộc vào nhiệt độ nhưng không phụ thuộc vào lượng thức ăn đã ăn. Hô hấp chiếm phần lớn trong quá trình đồng hóa carbon (62–87%), trong khi lột xác, tăng trưởng và sinh sản đã chiếm phần còn lại. Ở các cá thể trưởng thành, 9% carbon được đồng hóa được thải ra dưới dạng phần hữu cơ của trứng. Những động vật tăng trưởng nhanh đã đồng hóa tới 30% carbon đã được đồng hóa, nhưng các phép tính cho một quần thể sống ở biển cho thấy rằng 9% là lượng carbon hữu cơ được đưa vào mô (không tính trứng và vỏ lột) trong suốt vòng đời của động vật. Việc đồng hóa carbon từ thức ăn (tiêu hóa) dường như cao, thường trên 80%, dựa trên các thí nghiệm đồng vị. Trong phòng thí nghiệm, ấu trùng giáp xác dường như là thức ăn ưa thích hơn so với tảo đơn bào nhưng cả hai đều được ăn khi có sẵn; một loại tảo đã bị loại bỏ. Ấu trùng phải nhỏ hơn 0.8 mm để nhiều cá thể có thể được ăn bởi E. pacifica trưởng thành. Quá trình lột xác, chủ yếu diễn ra vào ban đêm, đã làm giảm khả năng ăn uống. Tốc độ lọc thức ăn của động vật trên tảo đơn bào đủ để duy trì tăng trưởng và chuyển hóa nếu lượng carbon có sẵn cho động vật trong biển tương đương với lượng đóng góp từ cả mùn bã và sản lượng tảo phù du trong khu vực tây bắc Thái Bình Dương nơi E. pacifica được tìm thấy. Có giả thuyết rằng E. pacifica trưởng thành phải bắt từ 100 đến 200 ấu trùng mỗi ngày khi 1 tuổi và 200–300 mỗi ngày khi 2 tuổi để đáp ứng tất cả các yêu cầu về carbon của nó. Mật độ trung bình của các giáp xác nhỏ trong tự nhiên có thể quá thấp để động vật này đáp ứng được nhu cầu của nó. Tuy nhiên, các mật độ có thể đủ cao trong các sự tập trung địa phương.

Giảm đau do tổn thương Lisfranc: So sánh giữa Phẫu thuật Nắn xương mở và Phẫu thuật Liên hợp nguyên phát Dịch bởi AI
Foot and Ankle International - Tập 30 Số 10 - Trang 913-922 - 2009
Thông tin nền:

Các chấn thương như trật khớp và trật khớp gãy liên quan đến khớp tarsometatarsal là những chấn thương tương đối phổ biến. Những chấn thương này thường dẫn đến tình trạng tàn tật lâu dài do viêm khớp đau đớn sau này và biến dạng còn sót lại. Nghiên cứu này đánh giá liệu việc thực hiện phẫu thuật liên hợp nguyên phát (PA) có cải thiện kết quả chức năng và giảm thiểu số lần phẫu thuật tiếp theo so với phẫu thuật nắn xương mở và cố định nội bộ (PORIF) hay không.

Nguyên liệu và phương pháp:

Bốn mươi bệnh nhân bị gãy hoặc trật khớp tarsometatarsal cấp tính đã được phân ngẫu nhiên theo hướng nghiên cứu để thực hiện hoặc PORIF hoặc PA. Khám lâm sàng và hình ảnh, cùng với bảng câu hỏi Đánh giá Chức năng xương khớp Ngắn (SMFA) và Thang điểm Khỏe mạnh ngắn 36 (SF-36), đã được đánh giá tại các thời điểm 3, 6, 12 và 24 tháng sau phẫu thuật ở 32 bệnh nhân. Một cuộc khảo sát điện thoại về sự hài lòng của bệnh nhân cũng đã được thực hiện.

Kết quả:

Tỷ lệ phẫu thuật thứ phát đã lên kế hoạch và không lên kế hoạch, bao gồm cả việc tháo dỡ thiết bị và phẫu thuật liên hợp khắc phục, giữa hai nhóm ORIF và PA là 78,6% so với 16,7%, có sự khác biệt đáng kể. Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chức năng thể chất giữa nhóm PORIF và PA với điểm số SF-36 hoặc SMFA ở bất kỳ thời điểm theo dõi nào. Tuy nhiên, thời gian từ chấn thương có ảnh hưởng đáng kể đến chức năng bị suy giảm sau ba tháng so với tất cả các khoảng thời gian tiếp theo. Không có sự khác biệt nào về mức độ hài lòng giữa PORIF và PA ở mức trung bình là 53 tháng trong một khảo sát điện thoại.

Kết luận:

PA đối với các chấn thương khớp tarsometatarsal dẫn đến giảm đáng kể tỷ lệ các thủ tục phẫu thuật tiếp theo nếu việc tháo dỡ thiết bị được thực hiện thường xuyên mà không có sự khác biệt đáng kể về điểm số kết quả SF-36 và SMFA so với PORIF. Mức độ chứng cứ: I, Nghiên cứu phân nhóm ngẫu nhiên có triển vọng.

#trật khớp #gãy khớp #tarsometatarsal #phẫu thuật liên hợp #phương pháp nghiên cứu ngẫu nhiên.
Phẫu thuật vi phẫu cho 67 ca dị dạng động-tĩnh mạch nội sọ có đường kính dưới 3 cm Dịch bởi AI
Journal of Neurosurgery - Tập 79 Số 5 - Trang 653-660 - 1993

✓ Kết quả phẫu thuật trên một loạt các dị dạng động-tĩnh mạch (AVMs) nhỏ được xem là lý tưởng để điều trị bằng phẫu thuật tia xạ đã được đánh giá lại. Trong tổng cộng một loạt phẫu thuật vi phẫu gồm 360 bệnh nhân, có 67 bệnh nhân (19%) đã trải qua cắt bỏ AVMs có đường kính lớn nhất dưới 3 cm bất kể vị trí nào. Nhiều tổn thương trong số này (45%) nằm ở các khu vực có thể được coi là khó tiếp cận về mặt phẫu thuật, chẳng hạn như đồi thị, thân não, bán cầu não giữa và các vùng gần tâm thất. Loại bỏ hoàn toàn các AVM bằng kỹ thuật vi phẫu được thực hiện ở 63 bệnh nhân (94%) với tỷ lệ biến chứng phẫu thuật là 1.5% và không có tử vong trong phẫu thuật. Bệnh nhân có AVM ở bán cầu não có tỉ lệ chữa lành đạt 100% và không có biến chứng thần kinh nào. Phẫu thuật mở sọ có hướng dẫn định vị đã được sử dụng trong 14 bệnh nhân (21%) để định vị và cắt bỏ các dị dạng ở sâu hoặc bị che khuất. Kết quả từ năm trung tâm phẫu thuật tia xạ lớn điều trị các AVM có kích thước tương tự được phân tích. Kết quả phẫu thuật của các tác giả so sánh có lợi với các trung tâm phẫu thuật tia xạ, theo quan điểm của họ, điều này hỗ trợ kết luận rằng vi phẫu thuật thần kinh vượt trội hơn phẫu thuật tia xạ, ngoại trừ một tỷ lệ nhỏ tổn thương thực sự không thể điều trị bằng phẫu thuật do khó tiếp cận.

#dị dạng động-tĩnh mạch #phẫu thuật vi phẫu #động-tĩnh mạch nội sọ #phẫu thuật tia xạ #mở sọ có hướng dẫn định vị #chữa lành
Các phẫu thuật dây đai dưới niệu đạo tổng hợp xâm lấn tối thiểu cho chứng tiểu không tự chủ do stress ở phụ nữ: Một đánh giá Cochrane phiên bản ngắn Dịch bởi AI
Neurourology and Urodynamics - Tập 30 Số 3 - Trang 284-291 - 2011
Tóm tắtThông tin nền

Chứng tiểu không tự chủ do stress (SUI) là một tình trạng phổ biến ảnh hưởng đến tới 30% phụ nữ. Các phẫu thuật dây đai dưới niệu đạo tổng hợp xâm lấn tối thiểu là một trong những phương pháp mới nhất được giới thiệu để điều trị SUI.

Mục tiêu

Đánh giá tác động của các phẫu thuật dây đai dưới niệu đạo tổng hợp xâm lấn tối thiểu trong điều trị SUI, chứng tiểu không tự chủ do áp lực (USI), hoặc chứng tiểu không tự chủ hỗn hợp (MUI) ở phụ nữ.

Phương pháp tìm kiếm

Chúng tôi đã tìm kiếm trong Đăng ký chuyên khoa Bất tiện của Cochrane (tìm kiếm ngày 20 tháng 3 năm 2008), MEDLINE (tháng 1 năm 1950 – tháng 4 năm 2008), EMBASE (tháng 1 năm 1988 – tháng 4 năm 2008), CINAHL (tháng 1 năm 1982 – tháng 4 năm 2008), AMED (tháng 1 năm 1985 – tháng 4 năm 2008), Đăng ký Nghiên cứu Quốc gia Vương quốc Anh, ClinicalTrials.gov, và danh sách tham khảo của các bài báo có liên quan.

#Phẫu thuật dây đai dưới niệu đạo tổng hợp #tiểu không tự chủ do stress #phụ nữ #đánh giá Cochrane #xâm lấn tối thiểu.
Cách tiếp cận trực tiếp từ trước: kinh nghiệm ban đầu về một kỹ thuật ít xâm lấn cho phẫu thuật thay khớp háng toàn bộ Dịch bởi AI
Journal of Orthopaedic Surgery and Research - - 2012
Tóm tắt Đặt vấn đề

Các phương pháp ít xâm lấn hơn cho phẫu thuật thay khớp háng đã được phát triển nhằm giảm thiểu tổn thương mô mềm và rút ngắn thời gian nằm viện. Tuy nhiên, lợi ích của một kỹ thuật mới có thể đi kèm với một loạt các vấn đề mới. Bài viết này mô tả, với sự nhấn mạnh vào các biến chứng sau phẫu thuật, kinh nghiệm của chúng tôi từ 200 ca thay khớp háng một bên đầu tiên sử dụng phương pháp tiếp cận trực tiếp từ trước ít xâm lấn (MIS).

Phương pháp

Đã sử dụng vết mổ thẳng ở phía trước của đầu lớn xương đùi và tiếp cận cơ tensor dưới bao fascia, sau đó dịch chuyển ra bên. Khớp được mở và đầu xương đùi đã được lấy ra. Thường thì việc phơi bày ổ cối rất tốt. Để có thể tiếp cận phần trên xương đùi, bao khớp hông được giải phóng ra phía sau bên để có thể nâng xương đùi bằng một công cụ đặc biệt phía sau đầu lớn xương đùi. Sau khi chèn khớp giả vào, vết thương được khâu lại bằng chỉ chạy trên fascià bao bọc cơ tensor, dưới da và trong da.

Tổng số: 375   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10